Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
- “Mỗi lời văn của Nguyễn Tuân đều là những nét bút trác tuyệt như môt nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ” (...
https://hocvan123.blogspot.com/2020/01/phan-tich-tac-pham-chu-nguoi-tu-tu.html
-
“Mỗi lời văn của
Nguyễn Tuân đều là những nét bút trác tuyệt như môt nét chạm khắc tinh xảo trên
mặt đá quý của ngôn ngữ” (Tạ Tỵ)
-
“Chữ người tử tù
- một tác phẩm gần đạt tới sự toàn mĩ” (Vũ Ngọc Phan)
1. Tác giả
- NT (1910 - 1987) là một nhà văn nổi tiếng
với một phong cách sáng tạo độc đáo.
-
Luôn nhìn người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, sáng tạo nên những nhân vật tài
hoa nghệ sĩ.
-
Tô đậm cái phi thường xuất chúng, gây cảm giác mãnh liệt.
-
Tạo ra cách nói, viết độc đáo không giống ai.
2. Tác phẩm.
-
Là truyện ngắn có nội dung tư tưởng sâu sắc và có nhiều thành công về nghệ
thuật.
-
In trong tập Vang bóng một thời -1940.
3. Tình huống truyện
* Tình
huống gặp gỡ cuả Quản Ngục và HC
- Không gian, thời gian gặp gỡ.
Họ
hội ngộ nhau trong hoàn cảnh éo le và đặc biệt về không gian là nơi tù ngục
biểu tượng cho cái xấu cái ác; thời gian cuộc gặp gỡ rất ít ỏi là hơn chục ngày
trước khi Hc lên đoạn đầu đài.
- Xét bình diện xã hội.
Họ
đứng trên hai chiến tuyến đối lập nhau. HC là tử tù lãnh đạo nhân dân khỏi
nghĩa chống lại sự bất công tàn bạo của triều đình pk đòi tự do hp. Viên quản
ngục là công cụ của triều đình sẵn sàng đàn áp người dân và những người như HC.
Như vậy họ là những người không đội trời chung.
-
Bình diện nghệ thuật.
HC là người có tài viết chữ đẹp và rất quý chữ của
mình chỉ cho chữ ba người bạn tri kỉ chứ không vì vàng ngọc hay quyền lực mà
cho chữ. Viên Quản ngục là người thích chữ đẹp, có thú chơi chữ Hán, có ước mơ
có được chữ ông HC treo trong nhà “như có vật báu” lại là người trọng tào đức.
Về điểm này họ hoàn toàn có thể trở thành bạn của nhau.
- Tính cách con người.
Huấn
Cao có tính vốn khoảnh, kiêu bạc mâu thuẫn với thân phận làm nghề thất đức của
QN. Đây là một anh hùng đang mất tự do về mặt thể xác nhưng hoàn toàn tự do về
tinh thần “thân thể ở trong lao, tinh thần ở ngoài lao”. Trái lại QN đang được
tự do về thân thể nhưng lại bị cầm tù tinh thần trong cái trật tự XHPK và không
thể thực hiện việc mình muốn.
Nt
đã xây dựng hai nhân vật vừa có sự mâu thuẫn vừa có nét tương đồng vừa là kẻ
thù của nhau vừa có thể là bạn nhau. Hai con người ấy liệu có thể vượt qua được
vực thẳm ngăn cách để hiểu lòng nhau hay không. Một vực thẳm không thể san lấp
bằng tiền bạc, không thể chấn uy bằng quyền lực may chăng chỉ có tấm lòng. Chỉ
có một một tấm lòng thiên lương mới lấp nổi.
* Tình
huống đấu tranh nội tâm của QN
Trong
cuộc hội ngộ này với tất cả những mau thuẫn kể trên QN phải lựa chọn giữa việc
trân trong tri kỉ, nâng niu cái đẹp nhưng phải hy sinh quyền lợi, đánh cược với
tính mạng mình và việc vùi dập cái đẹp bằng quyền lực, ép Hc cho chữ để giữ yên
phận. QN đã có sự đấu tranh tư tưởng suốt một đem trắng. Cuối cùng Quản ngục đã
lựa chọn, khuôn mặt ông “như mặt nước ao xuân bằng lặng kin đáo, êm nhẹ”.
1. Nhân vật
Huấn cao.
Nguyên
mẫu để cho nhân vật HC dâng trào cảm hứng xây dựng nên nhân vạt này chính là
nhân vật Cao Bá Quát trong lịch sử VN vừa là anh hùng khởi nghĩa vừa là nghệ sĩ
viết chữ đẹp mà huyền thoại nổi tiếng với câu nói: “Nhất sinh đê thủ vái maii
hoa”. Nhân vật này hội tu ba vẻ đẹp : Tài hoa; khí phách; tấm lòng nhân hậu. Đó
cũng chính là vẻ đẹp của nhân vật HC.
a. Vẻ đẹp tài
hoa
Tài văn
-
HC có tài viết
chữa rất nhanh và đẹp “có tài viết chữ tốt”, “chữ Huấn Cao đẹp lắm. vuông lắm”
“mỗi nét chữ của Huấn Cao thể chí tung hoành của một đời con người”. Vậy là qua
cuộc đối thoại giữa viên quản ngục với
thầy thơ lại NT đã dùng nghệ thuật lấy bóng lộ hình, vẽ mây nảy trăng để làm
nổi bật tài năng viết chữ Hán của HC.
Thư
pháp là bộ môn nghệ thuật cao siêu, thường phải người có văn hóa, có học thức
đức độ tài hoa mới viết được đẹp và thường viết ở không gian sạch sẽ thoáng
đãng như thư phòng, tiền sảnh. Mỗi lần người ngệ sĩ đạt bút viết là một lần
sáng tạo, mỗi lần con chữ viết ra là sự tập trung tài năng tâm huyết của người
nghệ sĩ. Mỗi nét chữ đều là hiện hình của ước mơ hoài bão thầm kín và mãnh liệt
trong trái tim người viết. Chứng tỏ đây là bộ môn nghệ thuật cao siêu có sự đòi
hỏi cao ở người nghệ sĩ. Phải hiểu đúng tầm cỡ của môn ngệ thuật này mới hiểu
được tư tưởng Nt nâng Hc lên hình tượng
ngệ sĩ. Qua việc miêu tả HC nguyễn Tuân kin đáo gửi gắm tình cảm tiếc nuối về
một nền văn hóa cổ truyền dân tộc đang bị mai một. Đó cũng chính là tình cảm
yêu cái đẹp, lòng yêu nước thầm kín của nhà văn.
Nt
càng miêu tả tài văn của HC cao siêu đến đỉnh điểm thì càng giúp cho người đọc
về sau hiểu được sâu sắc ước nguyện của viên Qn là có được chữ HC vì có được
chữ Hc “như có vật báu trên đời”. Cho nên để có được chữ HC viên Quản ngục
không những phải dụng công, phải nhẫn nhục mà còn phải liều mạng.
Tài võ
Ông
là lãnh tụ khởi nghĩa chống lại triều đình nhưng không mưu đồ đế vương mà cứu
dân đen khỏi áp bức. Khi bị băt giam có tài bẻ khóa vượt ngục. Điều đó thể hiện
sự coi thường cường quyền, bất chấp xiềng xích, gông cùm - nhà tù phong kiến và
ham muốn tự dôcuar HC.
b. Vẻ đẹp khí
phách
-
Có lí tưởng cao đẹp
HC được xây dựng là một vị anh hùng mang một lí tưởng
cao đẹp luôn bênh vực cho cái đẹp, cái thiện, nhân nghĩa , hp tự do của nhân
dân chống lại cái ác cái xấu sự bạo tàn sẵn sàng hy sinh cho lí tưởng ấy.
-
Coi thường cường quyền tàn ác.
Khi HC xuất hiện trực tiếp với các bạn tù “rệp cắn tôi
đỏ cả cổ lên rồi phải rỗ gông đi..” lập tức bị bọn lính tù đại diện cho quyền
lực tàn bạo mỉa mai, dọa đánh. Thế nhưng sự ngăn cản, doạ nat không hề tác động
được vào người anh hùng. “Huấn Cao lạnh lùng trúc mũi gông thúc vào thềm đá
đánh thuỳnh một cái”. Thanh gông ấy như một đòn mạnh giáng trả bon lính tù thể
hiện sự coi thường khinh rẻ và đặc biệt thể hiện khí phách một người tự do “dọc
ngang nào biết trên đầu có ai”. Không sợ cường quyền muốn làm gì là quyết tâm
làm được dù có bị ngăn trở hay gặp khó khăn và có được phép hay không.
-
Phong thái ung dung thanh thản.
Những ngày cuối đời được viên QN hậu đãi rượu thịt mặc
dù không biết nhưng vẫn “thản nhiên nhận rượu thịt coi đó là việc vẫn làm trong
hứng bình sinh”. Chứng tỏ NT đang vẽ nhân vật HC còn có phong thái đáng quý của
người anh hùng là ung dung thanh thản, đường hoàng, đĩnh đạc, coi thường sự
gian khổ và cái chết.
-
Yêu ghét rạch ròi
Thể
hiện ở lời nói khinh bạc để đuổi viên QN khỏi buồng giam, sẵn sàng chờ sự báo
thù. Ông không chấp nhận sự hậu đãi của Quản ngục vì ông ta làm nghề thất đức
tức là biểu tượng cho cái xấu, cái ác thì không thể vào buồng giam của HC.
c.
Vẻ đẹp của thiên lương, tấm lòng nhân hậu.
-
Thiên lương cao đẹp.
Trong truyện khái niệm “thiên lương” được HC sử dụng
với nhiều ý nghĩa. Thiên lương với Quản ngụ là tấm long biết yêu quý trân trọng
cái đẹp. Vói HC thì thiên lương là ý thức trong việc sử dụng tài năng của mình.
Ôg không bao giờ ép mình vì vàng ngọc hay quyền thế mà cho chữ. Suốt đời chỉ
viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường tăng ba người bạn thân.
-
Tấm lòng nhân hậu cao thượng.
Khi
thầy thơ lại nói về mong ước của viên quản ngục thì HC ngạc nhiên, ngỡ ngàng,
thú vị như phát hiện ra một điều kì diệu là ở nơi tưởng chừng như thế giới của
cái xấu, cái ác, vẫn tồn tại cái đẹp, cái thiện. Đó là tấm lòng “biệt nhỡn liên
tài” và có những sở thích cao quý “thích chữ đẹp”.Từ sự ngỡ ngàng Hc lại bộc lộ
sự cảm động trước một con người “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” và đồng ý
cho chữ “về bảo với chủ ngươi tối nay lúc nào lính canh về trại đem lụa, bút,
mực và bó đuộc đến đây ta cho chữ”. Hc cũng thấy hối hạn vì “thiếu chút nữa phụ
môt tấm lòng trong thiên hạ”. Câu nói hé lộ cho thấy lẽ sống của HC- sống phải
xứng với những tấm lòng”. Nếu vì một lí do nào đó mà phải phụ tấm lòng cao quý
của người khác thì HC cho đó là một tội lỗi không thể tha thứ của mình được.
Chính vẻ đẹp của trái tim dịu dàng, tấm lòng trong sáng trung thực này đã nâng
hình tượng nhân vật HC trở thành một anh hùng nghệ sĩ, có vẻ đẹp toàn vẹn hoàn
mĩ đến tuyệt vời “đại nhâ, đại chí, đại dũng”.
d.
Sự thông nhất cái tài, tâm và khí phách.
Huấn
Cao với vị thế tối cao tỏa sáng trong cảnh cho chữ. (Miêu tả cảnh cho chữ - xem phần 5).
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật
-
Sử dụng nhiều cách miêu tả khi trức tiếp, gián tiếp, đặc tả…
-
Đặt nhân vật vào tình huông độc đáo
-
Triệt để sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập, bút pháp lãng mạn để làm nổi
bật cái đẹp.
-
Dung nhân vật Quản ngục, thầy thơ lại làm đối sánh để nổi bật HC.
-
Ngôn ngữ miêu tả giàu chất tạo hình. Sử dụng nhiều từ Hán việt, lời nói khẩu
khí của người xua làm tăng vẻ đẹp của “một thời vang bóng”.
5. Cảnh cho chữ.
- Lý do cho chữ
Không
phải là sự thanh toán nợ nần của HC với QN. Không phải là hành động của người
sắp bị tử hình phung phí tài sản cuối cùng, cơ hôi cuối cung để phô diễn tài
năng. Là việc tấm lòng đền đáp một tấm lòng.
-
Không gian, thời gian cho chữ.
Không
gian tù ngục, thời gian đêm trước ngày lên đoạn đầu đài.
- Ánh sáng.
Buồng
giam vốn tăm tối nay “ánh sáng đỏ rực, khí khói tỏa như đám cháy nhà”, “lửa đóm
cháy rừng rức”=> tư tưởng.
- Maù sắc.
Vốn
bẩn thỉu đày phân gián, chuột nay thay vào là “một tấm lụa bạch còn nguyên lần
hồ đã che đi nền đất”.
- Mùi hương
Sự
ẩm ướt hôi thối thay bằng hương thơm thoi mực.
- Vị thế con người
Sự
hoán đổi vị thế, Cái tài, cái đẹp lên ngôi. Đó là cuộc chuyển giao vị thế, nhân
cách. Uy quyền và bạo lực giờ đây đã tan biến, nó bị khuất phục bởi cái đẹp,
cái thiên lương. Cái đẹp, cái thiên lương bỗng nhiên trở nên thiêng liêng tuyệt
đối, bởi “cái đẹp cảu tâm hồn mới làm cho con người ta kính trọng”. Chính vì
vậy, mọi thứ nhem nhuốc, đen tối, cường quyền đã hóa thành những thứ bủn
xỉn, chập choạng rơi xuống bùn sâu.Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục
lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiên lương cảu con người: “Ở đây lẫn
lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo
một bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung
hoành của một đời con người”. Cái hoài bão tung hoành của một đời con người:
“chọc trời, khuấy nước”, “Năm năm hùng bá một phương Hải Tần”, “Trong hang tối
mắt thần khi đã quắc – Là khiến cho mọi vật đều im hơi” của Huấn Cao với tấm
lụa trắng trẻo, nét chữ tươi tắn, vuông vắn thì chốn ngục tù bẩn thỉu này làm
sao xứng đáng để treo một đôi câu đối về bản chất thiên lương của con người quý
như báu vật ấy. Và hơn nữa, Huấn Cao cũng khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên
lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác:
“Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái
đời lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm
cho viên quản ngục cảm động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà
dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: – Kẻ mê muội này xin bái
lĩnh”. Câu nói : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” đúng là câu nói của một con
người có văn hóa và biết tôn sùng cái đẹp. Cái vái của quản ngục cũng là cái
vái của Nguyễn Tuân trước cái tâm, cái đẹp, cái tài danh mà ông tôn sùng. Cái
vái ấy thật giống với cái vái của Cao Chu Thần trước vẻ đẹp của hoa mai:“Nhất sinh
đê thủ bái hoa mai”(một đời chỉ biết cúi lạy trước vẻ đẹp của hoa mai).Cảnh
Huấn Cao cho chữ được Nguyễn Tuân khắc họa đạm nét. Ở đây không phải là cảnh
cho chữ bình thường nữa, mà đó đã trở thành cảnh thọ giáo thiêng liêng của
người cho chữ và người nhận chữ. Lời khuyên dạy của Huấn Cao chắc khác
chi một chúc thư về lẽ sống cảu đời người trước khi ông đi vào cõi bất tử. Với
lời khuyên đầy tình người ấy đã có sức mạnh mãnh liệt cảm hóa tâm hồn con người
bấy lâu đã cam chịu nô lệ nay nhận ra trở về với thiên lương. Tóm lại, cái
phí phách tinh thần bất khuất đã chiến thắng một cách vang dội trước thái
độ cam chịu nô lệ.
*
Nghệ thuật miêu tả
Ngòi
bút lãng mạn lí tưởng hóa. Thủ pháp nghệ thuật phóng đại, cường điệu hóa. Tận
dụng tối đa nghệ thuật tương phản đối lập.