Phân tích bài thơ Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm)
1. Tác giả - Nguyễn Khoa Điềm: Sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Hoà Phong, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên -Huế. - Quê gố...
https://hocvan123.blogspot.com/2019/11/phan-tich-bai-tho-at-nuoc-nguyen-khoa.html
-
Nguyễn Khoa Điềm: Sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Hoà
Phong, huyện Phong Điền, tỉnh
Thừa Thiên -Huế.
- Quê gốc ở An Cựu, Thuỷ An, Thành phố Huế.
- Ông đựợc tặng Giải thưỏng nhà nước về Văn học và nghệ thuật năm 2000.
-
Phong cách sáng tác :
+ Giàu chất suy tư , xúc cảm dồn nén .
+ Giọng thơ trữ tình chính luận .
+ Giàu chất suy tư , xúc cảm dồn nén .
+ Giọng thơ trữ tình chính luận .
2. Tác phẩm
* Đoạn trích Đất nước từ
trường ca Mặt đường khát vọng. Bản trường ca nhằm thức tỉnh tuổi trẻ các thành
thị vùng tạm chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về
nhân dân, đất nước, xuống đường đấu tranh, nhập vào cuộc chiến đấu của toàn dân
tộc. Trường ca này hoàn thành năm 1971 ở chiến khu Trị - Thiên và in lần đầu ở miền Bắc (1974). Đây là một
trong những tác phẩm tiêu biểu của trường ca về cuộc kháng chiến chống đế quốc
Mĩ.
- Đoạn trích "Đất nước" từ chương V trường ca"Mặt
đường khát vọng".
2. Phân
tích
a.. Đất nước - cội nguồn
dân tộc
Văn bản:
Khi ta lớn Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa..” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó..
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ra cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời..
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa..” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó..
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ra cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời..
Phân
tích:
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của
bao triệu trái tim con người . Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru
ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng,
thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân . Ta bắt gặp một hình tượng
đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn
Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm . Nhưng với
Nguyễn Khoa Điềm , ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình
diện khác nhau về một đất nước của nhân dân . Tư tưởng ấy đã qui tụ mọi cách
nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước . Thông qua những vần thơ kết
hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý
thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam
trong những năm chống Mĩ cứu nước .
Mở đầu
đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng , thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với
hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước .
Khi ta lớn lên Đất
nước đã có rồi
Đất Nước có trong
những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường
hay kể
Đất Nước bắt đầu
từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên
khi dân mình biết
trồng tre mà đánh
giặc .
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là
những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con
người . Đất Nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể,
trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ … gợi lên một Đất nước Việt Nam
bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng
quyết liệt khi chống quân xâm lược . Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi
về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.
Đất nước
còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một dân
tộc giầu truyền thống văn hóa , giầu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình
. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn . Gừng tất nhiên là cay, muối tất
nhiên là mặn . Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia .
Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa
của một ai đó hôm nào : Tay bưng dĩa muối chén
gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau .
Đất nước
còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa
:
Cái kèo cái cột
thành tên
Hạt gạo phải một
nắng hai sương xay,
giã, giần, sàng
Đất Nước có từ
ngày đó .
Ở đây Đất
nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản gị
biết bao . Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng
của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân” .
Vẫn bằng
lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa
Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình :
Đất là nơi anh đến
trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta
hò hẹn
Đất Nươc là nơi em
đánh rơi chiếc
khăn trong nỗi nhớ
thầm .
Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mông
từ rừng đến bể mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của
mỗi người, không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương . Ý
nịêm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và
nước với những liên tưởng gợi ra từ đó . Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô
nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm
mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ
có thể tách ra, nhấn mạnh .
Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em
trong sáng dịu hiền . Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và
em hò hẹn . Không những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ
mong của những người đang yêu . Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai
cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta . Chiếc khăn – biểu tượng
của nỗi nhớ thương – đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng : “Khăn
thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất …”, một lần nữa lại khiến lòng người xúc
động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say đắm.
Đất Nước
còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương . Hình ảnh con chim
phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang phong
cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả . Đất Nước mình
bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng,
nhất là đối với những người đi xa . Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật
mình nhớ gốc cây đa lại về . Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng
về quê hương, hướng về cội nguồn .
Đất Nước
trường tồn trong không gian và thời gian : Thời gian đằng đẵng, không gian mênh
mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng
Việt Nam
qua bao thế hệ . Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ
, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ . Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ,
nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn
của dân tộc . Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ
đến dòng giống Rồng Tiên của mình .
Nhắc đến
chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở :
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh
con đẻ cái
Gánh vác phần
người đi trước để lại
Dặn dò con cháu
chuyện mai sau
Cảm hứng
thơ của tác giả có vẻ phóng túng , tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống lập
luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện :
trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của
thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống tâm hồn và
tính cách dân tộc .
Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ
phương diện nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi , nó
như một hệ qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ .
Và cụ thể
hơn nữa , gần gũi hơn nữa , Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta :
Trong anh và em
hôm nay
Đều có một phần
đất nước
Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của
mỗi con người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con
người mà là của cả đất nước . Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn
hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất
nước muôn đời .
Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác
giả tập trung làm nổi bật tư tưởng : Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là
người đã sáng tạo ra Đất nước .
b.
Đất
nước của nhân dân, nhân dân làm ra đất nước
Văn
bản:
Những người vợ nhớ
chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu
nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh
Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con
voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm
im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò
nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà
quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân
nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp
ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một
dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau
4.000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã
hóa núi sông ta
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào 4.000 năm Đất
Nước
Năm tháng nào cũng
người người lớp lớp
Con gái, con trai
bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người
con trai ra trận
Người con gái trở
về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà
thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở
thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả
anh và em đều nhỏ
Nhưng em biết
không
Có biết bao người
con gái, con trai
Trong 4.000 lớp
người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình
tâm
Không ai nhớ mặt
đặt tên
Nhưng họ đã làm ra
Đất Nước
Họ giữ và truyền
cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyển lửa qua
mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng
điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên
xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ
cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì
chống ngoại xâm
Có nội thù thì
vùng lên đánh bại
Để Đất Nước là Đất
Nước nhân dân
Đất Nước của nhân
dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu
em từ thở trong nôi”
Biết quý công cầm
vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi
ngày thành gậy
Đi trả thù mà
không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông
bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước
mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi
chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên
trăm dáng sông xuôi
Phân
tích:
Ở đoạn thơ trên, Đất Nước được quy tụ bằng một
loạt những hình ảnh, những hiện tượng, những địa danh, những danh nhân…mà bất
cứ người Việt Nam nào cũng nhận ra: Hòn Trống Mái, núi Vọng Phu, voi Hùng
vương, ngựa Thánh Gióng, núi Bút, non Nghiêng, vịnh Hạ Long hay những địa phương
mang tên những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm v.v…Cách nhìn của tác giả về
những thắng cảnh, về địa lí là một cách nhìn có chiều sâu và là một phát hiện
mới mẻ:
“Những người vợ
nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu
nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh
Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con
voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm
im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò
nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê
hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân
nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Cả bài thơ, câu thơ đoạn thơ nào cũng hay
nhưng đặc biệt là đoạn thơ nói về những
danhlam thắng cảnh đẹp của đât nước, được NKD cho rằng chính là do phẩm chất
tốt đẹp của nhân dân đã hóa thân thành. Là đoạn thơ có khám phá đặc sắc, sáng
tạo về nghệ thuật.
Cả đoạn thơ nhà thơ sử
dụng phép tu từ liệt kê liên tiếp những danh lam thắng cảnh đẹp thơ mộng, lộng
lẫy trên khắp đất nước VN như núi Vọng phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Tấy Nguyên.
Hòn trống mái ở Sầm Sơn (Thanh Hóa), trăm ao đầm ở khắp đất nước, 99 ngon núi ở
đất tổ Phú Thọ, những dòng sông xanh ở đồng bằng Nam Bộ. Núi bút, Non Ngiên ở
Quảng Ngãi. Hình con cóc, con gà ở thắng cảnh Hạ Long. Những địa danh có tên,
những người dân có cong lớn với công cuộc xây dựng bảo vệ đất nước.
Tất cả ai cũng biết đó là
do bàn tay kì diệu của tạo hóa, vũ trụ thiên nhiên mà thành, chất liệu bằng đá,
đất và nước, vốn vô tri vô giác. Nhưng với đôi mắt tinh tế trái tim nhạy cảm,
sự sáng tạo nghệ thuật độc dáo của NKD lại cho rằng tất cả những vẻ đẹp lì thú
lộng lẫy ấy là do những phẩm chất vô cùng tốt đẹp cao quý thiêng liêng của nhân
dân ta hóa thân mà thành. Núi vọng Phu là do lòng chung thủy của “những người
vợ nhớ chồng” mà thành. Hòn trống mái là do phẩm chất sống tình nghĩa, gắn bó.
Trăm ao đầm trên khắp đất nước là do gót ngựa đi đánh giặc thể hiện truyền
thống yêu nước kiên cường anh hùng dũng cảm của nhân dân ta. Những dòng sông
xanh là do những con rồng thiêng liêng tạo ra màu mỡ phù sa để làm thành vựa
lúa vô tận của đông Tháp Mười. Núi bút non Nghiên do phẩm chất hiếu học của
những học trò nghèo. Và thắng cảnh Hạ Long là do những con vật gần gũi với nhân
dân góp thành.
Đề nổi bật phẩm chất của
nhân dân ta với những danh Lam thắng cảnh nhà thơ sử dụng một loạt động từ mạnh
láy đi láy lại “góp chp, góp nên, góp mình.”có tác dụng nhấn mạnh sự đóng góp
tài trí sức lực toàn diện to lớn của nhân dân từ bao đời mà thành vẻ đẹp toàn
diện dáng hình kì diệu của đất nước.
Khi nhà thơ viết những
câu thơ này -1971 đất nước ta đang bị chia cắt hai miền. Nhưng những danh lam
thắng cảnh trong khổ thơ trải dài khắp
ba miền Bắc -Trung -Nam .
Chứng tỏ trong con tim khối óc của mỗi người con đất nước Việt thì VN luôn là
một khối thống nhất:
Chúng ta là con một cha, nhà một nóc
Thịt với xương, tim óc dính liền
Nhà thơ NKD giống như một
hướng dẫn viên di lich đắm say dõi nhìn toàn vẹn vẻ đẹp của đất nước quê hương
với niềm tự hào trân trọng ngợi ca sung sướng hạnh phúc đến đỉnh điểm truyền
cho người đọc thấy được tất cả hình hài của đất nước đều do những cuộc đời của
nhân dân bao thế hệ hóa thân mà thành. Tất cả đều hội tu thăng hoa những phẩm
chất ước mơ ngàn đời của dân tộc VN.
Tác giả đã liệt kê hàng
loạt hiện tượng rồi quy nạp để đi đến một khái quát sâu sắc: Núi sông này và
cuộc đời của dân tộc là một:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lốt sống ông cha
Ôi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…
Khi nghĩ về bốn
nghìn năm đất nước, nhà thơ không điểm lại các triều đại, các
anh hùng nổi tiếng, mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô
danh, bình dị, sinh ra, lớn lên, lao động và đánh giặc từ thế hệ nọ tiếp nối
thế hệ kia:
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và đã chết! Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Những con người vô danh
và bình dị ấy đã gìn giữ và truyền lại cho các
thế hệ sau mọi giá trị văn hoá, văn minh, tinh thần và vật chất
của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả
tên xã, tên làng…Họ cũng là những người:
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại.
Tư tưởng cốt lõi,
điểm hội tụ và cũng là cao điểm của cảm xúc trữ tình là tư tưởng “Đất Nước này
là Đất Nước nhân dân” (nằm ở cuối đoạn trích). Cũng từ điểm này, chúng ta hiểu
thêm những ý thơ trên. Và khi nói đến Đất Nước của Nhân dân, một cách tự nhiên,
tác giả trở về với ngọn nguồn phong phú đẹp đẽ của văn hoá, văn học dân gian mà
tiêu biểu là ca dao. Vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm
thấy ở đó-trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích:
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Câu thơ với hai vế song
song, đồng đẳng là một cách định nghĩa về Đất Nước..thật giản dị mà cũng thật
độc đáo. Trong cả kho tàng ca dao, dân ca, ở đây tác giả chỉ chọn lọc ba câu để
nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc: thật say
đắm trong tình yêu (“Yêu em từ thuở trong nôi”), quí trọng tình nghĩa (“Quí
công cầm vàng những ngày lặn lội”) nhưng cũng thật quyết liệt trong câm thù và
chiến đấu (“Trồng tre đợi ngày thành gậy
– Đi trả thù mà không sợ dài lâu”…)
Chúng ta lại gặp
cách vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà
chỉ sử dụng ý và hình ảnh của ca dao, vẫn gợi
nhớ đến câu ca dao nhưng lại trở thành một câu, một ý thơ gắn bó
trong mạch thơ của bài.
Tư tưởng Đất Nước
của Nhân dân của Nguyễn Khoa Điềm thực ra là sự kế thừa và phát triển tư tưởng
Đất nước của nhân dân đã manh nha trong lịch sử xa xưa, trải qua cuộc kháng
chiến chống Pháp và ở đây là chống Mĩ..
Những nhà tư tưởng lớn, những nhà văn của dân tộc đã từng nói lên
nhận
thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử (Nguyễn Trãi, Nguyễn
Đình Chiểu, Phan Bội Châu) hoặc cảm
thông sâu sắc với số phận của nhân dân, của mọi lớp người trong nhân dân (Văn
chiêu hồn, Truyện Kiều của Nguyễn Du).
Đến nền văn học hiện đại, được soi sáng bằng tư tưởng XHCN, bằng
quan
điểm mác xít về nhân dân và nẩy nở từ trong thực tiễn vĩ đại của
cuộc cách mạng mang tính nhân dân sâu sắc, văn học từ sau Cách mạng tháng Tám
đã đạt đến một nhận thức sâu sắc về nhân dân và cảm hứng về đất nước mang tính
dân chủ cao. Thơ ca kháng chiến chống Pháp là một ví dụ tiêu biểu (Tình sông
núi của Trần Mai Ninh, Đất nước của Nguyển Đình Thi, Bên kia sông Đuống của
Hoàng cầm).
Đến giai đoạn chống
Mĩ, tư tưởng Đất nước của nhân dân một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi
vai trò và những đóng góp to lớn, những hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc
chiến tranh dài lâu và cực kì ác liệt này.
Tư tưởng ấy được các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước phát biểu
một
cách thấm thía qua sự trải nghiệm của chính mình như những thành
viên của
nhân dân, cùng chia sẻ mọi gian lao, hi sinh và được sự chở che,
đùm bọc, nuôi dưỡng của nhân dân (Hơi ấm ổ rơm của Nguyễn Duy, các trường ca
Những người đi tới biển của Thanh Thảo và Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh đều
tập trung nói về những gương mặt của các con người bình thường, vô danh trong
nhân dân và không phải ngẫu nhiên mà đều bắt đầu bằng hình ảnh người mẹ.) Đây là đoạn thơ trữ tình – chính luận. Chất
chính luận nằm trong ý đồ tư tưởng của tác giả: thức tỉnh tinh thần dân tộc của
thế hệ trẻ thành thị miền Nam ,
để dứt khoát đứng về phía nhân dân và cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
đang diễn ra quyết liệt. Đoạn thơ thể hiện được những chỗ mạnh của thơ Nguyễn
Khoa Điềm: kết hợp cảm xúc và suy nghĩ, chính luận và trữ tình. Thành công của
đoạn trích là việc tạo một không khí, giọng điệu, một không gian nghệ thuật
riêng đầy màu sắc sử thi, đưa người đọc vào thế giới gần gũi, mĩ lệ và giàu sức
bay bổng của ca dao, truyền thuyết, của văn học dân gian, nhưng lại mới mẻ qua
cách cảm nhận và tư duy hiện đại với hình thức câu thơ tự do. Đó chính là nét
đặc sắc thẩm mĩ, thống nhất với tư tưởng “Đất nước của Nhân dân-
Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa
lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước . Những núi Vọng
Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên … không còn là những cảnh thú
thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân
dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân , sự hóa thân của những
con người không tên tuổi : “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những
núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái” , “Người học trò
thắng cảnh” . Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm,
hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân . Chính nhân dân đã tạo
dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi ,
dòng sông . Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ
qui nạp thành một khái quát sâu sắc :
Và ở đâu trên khắp
ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một
dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi ! Đất nước sau
bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã
hóa núi sông ta .
Tư tưởng
Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn
nghìn năm của đất nước . Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến
những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người
vô danh, bình thường, bình dị . Đất nước trước hết là của nhân dân, của những
con người vô danh bình dị đó .
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình
tâm
Không ai nhớ mặt
đặt tên
Nhưng họ đã làm ra
Đất nước
Họ lao
động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau
các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa,
ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ,
ca dao . Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật
lên tư tưởn cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo :
Đất nước
này là Đất nước nhân dân
Đất nước
của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Một định
nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước . Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn
thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân
tộc : Thật đắm say trong tình yêu, biết quí trọng tình nghĩa và cũng thật quyết
liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm .Những câu thơ khép lại tác phẩm ca
ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm hồn lạc quan phơi phới . Tất cả
ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui …
Điểm hội tụ và cũng là cao điểm của cảm xúc
trữ tình ở cuối đoạn trích này. “Đất nước này là Đất nước của Nhân dân” Cũng từ
điểm này chúng ta hiểu thêm những ý thơ trên. Và khi nói đến Đất nước của Nhân
dân, một cách tự nhiên, tác giả trở về với nguồn phong phú đẹp đẽ của văn hóa,
văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp tinh thần của nhân dân,
hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. “Đất
nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”. Câu thơ ở hai vế song song,
đồng đẳng là một cách định nghĩa về Đất nước… thật giản dị mà cũng thật độc
đáo. Trong cả kho tàng ca dao, dân ca, ở đây tác giả chỉ chọn lọc ba câu để nói
về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc: thật say
đắm trong tình yêu (yêu em từ thuở trong nôi) quý trọng tình nghĩa (quý công
cầm vàng những ngày lặn lội) nhưng cũng thật quyết liệt trong căm thù và chiến
đấu (trồng tre đợi ngày thành gậy, đi trả thù mà không sợ dài lâu…)
Chúng ta gặp lại cách vận dụng vốn ca dao
dân ca một cách sáng tạo, không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý và hình ảnh
của câu ca dao, vẫn gợi nhớ đến câu ca dao nhưng lại trở thành một câu, một ý
thơ gắn bó trong mạch thơ của bài.
Tư tưởng Đất nước của Nhân dân thật ra đã
có manh nha từ trong lịch sử xa xưa. Những nhà tư tưởng lớn, những nhà văn lớn
dân tộc đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử (Nguyễn
Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu) hoặc cảm thông sâu sắc với số phận của
nhân dân, của mọi lớp người trong nhân dân (Nguyễn Du với văn Chiêu hồn, Truyện
Kiều). Đến nền văn học hiện đại, được soi sáng bằng tư tưởng xã hội chủ nghĩa,
bằng quan điểm Mác-xít về nhân dân và nảy nở từ trong thực tiễn vĩ đại của cuộc
cách mạng mang tính nhân dân sâu sắc, văn học từ sau Cách mạng Tháng Tám đã đạt
đến một nhận thức sâu sắc về nhân dân và cảm hứng về đất nước mang tính dân chủ
cao. (Thơ ca kháng chiến chống Pháp là một ví dụ tiêu biểu. Có thể nhớ đến các
bài: Tình sông núi của Trần Mai Ninh, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Bên kia
sông Đuống của Hoàng Cầm…). Đến giai đoạn chống Mỹ, tư tưởng Đất nước của Nhân
dân một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò và những đóng góp to
lớn, những hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc chiến tranh dài lâu và cực kỳ
ác liệt này. Tư tưởng ấy được các nhà thơ trẻ chống Mỹ phát biểu một cách
thấm thía qua sự trải nghiệm của chính mình như những thành viên của nhân dân,
cùng chia sẻ mọi gian lao, hi sinh và được che chở, đùm bọc, nuôi dưỡng của
nhân dân (Hơi ấm ổ rơm của Nguyễn Duy, các trường ca Những người đi tới biển
của Thanh Thảo và Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh đều tập trung nói về những
gương mặt của các con người bình thường, vô danh trong nhân dân và không phải ngẫu
nhiên mà đều bắt đầu bằng hình ảnh người mẹ). Đất nước của Nguyễn Khoa
Điềm góp thêm một thành công trong dòng thơ về Đất nước thời chống Mỹ, làm sâu
sắc thêm nhận thức về Nhân dân và Đất nước.
Kết
luận: Thành công của bài
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm còn là việc tạo ra một không khí, một giọng điệu,
một không gian nghệ thuật riêng. “Đất nước” đưa ta vào thế giới gần gũi, mỹ lệ
và bay bổng của ca dao, truyền thuyết ,của văn hóa dân gian nhưng lại mới mẻ,
qua cảm nhận và tư duy hiện đại ,qua hình thức thơ tự do. Đó chính là nét đặc
sắc thẩm mỹ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân, Đất nước của ca
dao thần thoại” của bài thơ.