Phân tích tấn bi kịch Vũ Như Tô trong Vĩnh Biệt Cửu Trùng Đài (Trích hồi V vở kịch lịch sử Vũ NHư Tô – Nguyễn Huy Tưởng)
“Vũ Như Tô” là vở kịch lịch sử có qui mô hoành tráng xuất sắc của Nguyễn Huy Tưởng và của nền kịch nói Việt Nam hiện đại. Tác phẩm đượ...
https://hocvan123.blogspot.com/2016/06/phan-tich-tan-bi-kich-vu-nhu-to-trong.html
“Vũ
Như Tô” là vở kịch lịch sử có qui mô hoành tráng xuất sắc của Nguyễn Huy Tưởng
và của nền kịch nói Việt Nam
hiện đại. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1941, dựa trên một sự kiện lịch sử xảy
ra ở kinh thành Thăng Long vào thời hậu Lê. Tác phẩm gồm 5 hồi. Đoạn trích
“Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” là hồi 5, hồi cuối của vở kịch. Trong đoạn trích được
học, gây ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng người đọc là nhân vật Vũ Như Tô cùng
bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài.
Hành
động, sự kiện chính của hồi này có thể tóm tắt như sau:Lợi dụng tình hình rối
ren và mâu thuẫn giữa nhân dân, thợ xây đài với Vũ Như Tô và bạo chúa Lê Tương
Dực, Trịnh Duy Sản cầm đầu một phe cánh đối nghịch trong triều đình đã dấy binh
nổi loạn, lôi kéo thợ thuyền làm phản.Biết tin có binh biến, bạo loạn trong phủ
chúa, nguy hiểm đến tính mạng Vũ Như Tô, Đan Thiềm hết lời khuyên và giục chàng
đi trốn. Nhưng Vũ khăng khăng không nghe vì tự tin mình “quang minh chính
đại”,“không làm gì nên tội” và hi vọng ở chủ tướng An Hòa Hầu.Tình hình càng
lúc càng nguy kịch. Lê Tương Dực bị giết; đại thần, hoàng hậu, cung nữ của y
cũng vạ lây; Đan Thiềm bị bắt, .… Kinh thành điên đảo.Khi quân khởi loạn đốt
Cửu trùng đài thành tro, Vũ Như Tô mới tỉnh ngộ. Chàng trơ trọi, đau đớn vĩnh
việt cửu trùng đài rồi bình thản ra pháp trường.
Theo
từ điển văn học, bi kịch là mâu thuẫn giữa khát vọng, hoài bão, lí tưởng của cá
nhân với thực tại. Thực tại chưa đủ điều kiện cho cá nhân thực hiện khát vọng,
lý tưởng của mình nên rơi vào thất bại, thậm chí dẫn đến cái chết thảm thương.
Hiểu theo nghĩa thông thường là nỗi đau khổ vò xé dai dẳng không có cách nào
giải thoát. Trong Vĩnh biệt cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô là người nghệ
sĩ thiên tài có lý tưởng cao đẹp nhưng lâm vào cảnh ngộ không giải
quyết được một cách đúng đắn vấn đề sáng tạo nghệ thuật cho ai và để làm gì
nghĩa là không giải quyết được mối quan hệ phức tạp giữa nghệ thuật và đời sống
cuối cùng rơi vào bi kịch đau đớn.
Vũ
Như Tô là một nhân vật có thật đã từng được Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép
rất tỉ mỉ: “Trước đây, Vũ Như Tô một người thợ ở Cẩm Giàng, xếp những thanh nứa
làm thành kiểu mẫu cung điện lớn trăm nóc, dâng lên nhà vua; nhà vua bằng lòng
phong cho Như Tô làm đô đốc đứng trông nom việc dựng hơn trăm nóc cung điện lớn
có gác, lại khởi công làm Cửu trùng đài. “(Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương
Mục Chính Biên, quyển 26). Tuy nhiên Cửu Trùng Đài đã làm “Dân chúng đau khổ, binh
lính mệt nhọc. Quân năm phủ đắp thành chưa xong được, đến đây lại có lệnh bắt
các nha môn ở trong ngoài kinh thành phải làm, tập hợp nhau lấy hồ, khiêng đất.
Vua hàng ngày bất thần ngự chơi các nơi, chỗ nào vừa ý thì thưởng cho bài vàng,
bài bạc. Có chỗ đã làm xong lại phải làm lại, sửa đổi xây đắp lại, hết năm này
qua năm khác, liên miên không dứt. Quân lính đắp thành mắc chứng dịch lệ đến
một phần mười.”(Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ thực lục, Quyển XV, Kỷ Nhà Lê,
Tương Dực Đế). Sau đó, Trịnh Duy Sản phản nghịch, dẫy binh, Vũ Như Tô bị thợ
thuyền giết chết, xác quăng ngoài chợ, bị mọi người khinh khi nhổ nước bọt.
Tuy nhiên, bi kịch đó của họ Vũ là sự oan
khuất bởi ông chỉ là người thừa lệnh của vua làm Cửu Trùng Đài vì
thế nhân dân lầm tưởng ông chỉ biết phụng sự cho hôn quân bạo chúa.
Năm 1941, Nguyễn Huy Tưởng đã minh oan cho họ Vũ bằng vở kịch năm hồi này.Trong
vở kịch Vũ Như Tô hiện lên là một kiến trúc sư thiên tài, là hiện thân của niềm
khao khát say mê sáng tạo cái đẹp, “là người ngàn năm dễ có một….có thể sai
khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có thể xây lâu đài cao cả, nóc vờn mây
mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ…chỉ vẩy bút là chim hoa đã hiện trên
mảnh lụa thần tình biến hóa như cảnh hóa công”. Qua vài lời của tác giả ta thấy
Vũ Như Tô là một nghệ sĩ lớn mang trong mình nhân cách cao đẹp, một nghệ sĩ có
hoài bão lớn lao, có lý tưởng nghệ thuật cao cả. Khát vọng nghệ thuật của ông
lớn lao hơn bao giờ hết, ông muốn xây dựng một toà lâu đài vĩ đại “bền như
trăng sao” để cho “dân ta nghìn thu còn hãnh diện” . Đó là một công trình kiến
trúc vĩ đại, tuyệt mĩ, tô điểm cho non sông đất nước: “để ta xây một Cửu Trùng
Đài, dựng một kì công muôn thuở, vài năm nữa Cửu Trùng Đài hoàn thành, cao cả
huy hoàng, giữa cõi trần lao lực có một cảnh Bồng Lai…. Đời ta không quý bằng
Cửu Trùng Đài”. Tâm Hồn của Vũ dành hết cho Cửu trùng đài.Cửu Trùng Đài – như
cái tên của nó – là một công trình kiến trúc mà tầm vóc không thể chỉ tính đếm
bằng lượng gỗ cây, đá khối, cho dù đó là những con số nghe qua cũng đã đủ kinh
hoàng (“hai trăm vạn cây gỗ chất đống cao như núi, toàn những gỗ quý vô
ngần”,“hai mươi vạn phiến đá lớn, bốn mươi vạn phiến đá nhỏ, từ Chân Lạp tải
ra”). Tầm vóc của nó, phải hình dung bằng chính tầm vóc ý tưởng, khát vọng đầy
ngạo nghễ của người sẽ tạo ra nó: một công trình độc nhất vô nhị, vượt xa tất
cả những kỳ quan ở Trung Quốc, Ấn Độ, Chiêm Thành,… và những công trình mà
người đời từng biết đến, từng truyền tụng. Lại là một kỳ quan bền vững, bất
diệt. Xây công trình, họ Vũ không thèm “tranh tinh xảo” với người, chỉ “tranh
tinh xảo với Hóa công”! Đó là hiện thân của cái Đẹp, không phải cái Đẹp nói
chung mà là cái Đẹp “siêu đẳng”.
Tuy
nhiên, Đài Cửu Trùng lại là hiện thân cho cái Đẹp xa hoa. Xây nên kỳ quan ấy,
tất nhiên cực kỳ tốn kém, một sự tốn kém không chỉ tính bằng tiền của ngân khố
quốc gia, mà còn phải tính bằng cả mồ hôi, nước mắt và máu nữa. Mà Đài chỉ xây
cho kẻ ăn chơi sa đọa là vua dâm Lê Tương Dực. Còn nhớ đời Tây Chu bên Trung
Hoa, U vương vì Bao Tự mà bắt dân xây Giao Đài để ăn chơi hưởng lạc, khiến cho
lòng dân trong nước oán hận rồi cuối cùng đời Tây Chu cũng diệt vong. Cái mầm
mống bi kịch của Vũ Như Tô ở đây là ước mơ khát vọng to lớn như vậy nhưng bản
thân thì không thực hiện được vì không có tài chính. Còn phụng sự cho hôn quân
bạo chúa Lê Tương Dực thì ông không bao giờ hợp tác. Nhưng rồi, Đan Thiềm xuất
hiện: sắc đẹp, lời ngon tiếng ngọt và sự tôn kính của Đan Thiềm đã làm cho Vũ
xiêu lòng và bằng lòng xây Cửu Đài. Cái oái oăm là ở đó, và mầm mống
bi kịch của Vũ Như Tô cũng là ở đó.Theo đó, ý nghĩa biểu tượng thâm trầm của
Cửu Trùng Đài được xác lập trên nhiều mối quan hệ. Với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài
hiện thân cho “mộng lớn”. Với Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài hiện thân cho niềm kiêu
hãnh nước nhà. Với Lê Tương Dực, Cửu Trùng Đài là quyền lực và ăn chơi. Với dân
chúng, Cửu Trùng Đài là món nợ mồ hôi, xương máu,… từ đó bi kịch đã đến với Vũ
Như Tô.
Vì
quá đam mê thi thố tài năng Vũ Như Tô nào có hiểu được sâu xa, trên
thực tế, Cửu Trùng Đài đã xây dựng bằng mồ hôi xương máu của nhân dân và nếu
được hoàn thành thì nó cũng chỉ là nơi ăn chơi xa xỉ, sa đoạ của vua chúa,
giống như công trình kiến trúc “Vạn Niên” của triều đình Nguyễn sau này : “Vạn
niên là vạn niên nào? Thành xây xương lính, hào đào máu dân”. Như vậy, Vũ Như
Tô đã sai lầm khi lợi dụng quyền lực của bạo chúa để thực hiện khát vọng nghệ
thuật của mình. Chỉ đứng trên lập trường nghệ sĩ thuần tuý nên đã vô hình
chung, trở thành kẻ đối nghịch với nhân dân, gây đau khổ cho nhân dân. Để xây
dựng Cửu đài, triều đình đã ra lệnh tăng sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã,
hành hạ những người chống đối. Dân căm phẫn vua làm cho dân cùng nước kiệt; thợ
oán Vũ vì nhiều người chết vì tai nạn, vì ông cho chém những kẻ bỏ trốn. Vì thế
cho nên nhân dân căm giận bạo chúa, đồng thời cũng oán trách, nguyền rủa, thậm
chí là oán hận kiến trúc sư đầy tài năng Vũ Như Tô và cuối cùng đã giết chết cả
tên hôn quan bạo chúa Lê Tương Dực lẫn Vũ Như Tô, đốt cháy cả Cửu Trùng Đài.Mâu
thuẫn đỉnh điểm được giải quyết bằng vũ lực. Trịnh Duy Sản cầm đầu bọn phản
nghịch đã náo loạn kinh thành. Chúng tìm Lê Tương Dực và giết chết tên hôn quân
ấy. Chúng đốt phá Cửu trùng đài, chúng tìm Vũ Như Tô để rửa hận. Nhưng Vũ đúng
là một nhân vật bi kịch. Ông không thể nào trả lời câu hỏi “xây dựng Cửu Trùng
Đài là đúng hay sai, là có công hay có tội?. Thật đau đớn thay, bi kịch thay
cho đến khi cuộc nổi loạn nổ ra, Đan Thiềm mặt cắt không còn hột máu, hốt hoảng
đến báo cho Vũ Như Tô, nếu không chạy trốn thì ông sẽ bị giết, nhưng Vũ Như Tô
vẫn không chịu đi và vẫn day dứt một câu hỏi: “Tôi có tội gì? Tôi làm gì nên
tội? Làm gì phải trốn?”. Thậm chí Vũ Như Tô còn khẳng định “ Bà không nên lo
cho tôi. Tôi không trốn đâu. Người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà vạn nhất
có chết, thì cũng để cho mọi người biết rằng công việc mình làm chính đại quang
minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa
Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi để cả đây!”. Khi được Đan Thiềm giục giã chạy
trốn bởi nguy hiểm cận kề, Vũ Như Tô còn “Ngây thơ” : “Họ tìm tôi nhưng có lý
gì họ giết tôi. Tôi có gây oán gây thù gì với ai”. Câu nói thể hiện sự bảo thủ
và có phần mê muội. Ngay cả khi bị bắt Vũ vẫn không tin là sự thật, vẫn vĩnh
biệt Đan Thiềm “đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một đài vĩ đại để
tạ lòng tri kỷ”. Khi bị quân sĩ vả vào miệng Vũ vẫn không ngừng nói
về Cửu đài: “…vài năm nữa, Đài cửu trùng sẽ hoàn thành, cao cả, huy hoàng giữa
cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai”. Đến chết vẫn hi vọng sẽ thuyết phục
được An Hoà Hầu, một kẻ cầm đầu một phe nổi loạn, song sự thực đã diễn ra một
cách phũ phàng tàn nhẫn, không như ảo tưởng của Vũ Như Tô. An Hoà Hầu đã cho
quân đốt phá kinh thành, đốt phá cả Cửu trùng đài. Cửu Trùng đài tan thành tro
bụi.Tất cả chỉ là ảo vọng. Đan Thiềm và Vũ bị bắt, Cửu Trùng Đài bị thiêu huỷ
thì Vũ mới bừng tỉnh, ngửa mặt lên trời mà cất lên tiếng than ai oán tuỵệt vọng
“Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Trời ơi! Phú cho ta cái tài để làm gì. Ôi mộng lớn!
Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài! Thôi thế là hết! Dẫn ta đến pháp trường”. Trong
tiếng kêu than ấy, tiếng “Đan Thiềm, mộng lớn Cửu Trùng Đài” dồn dập vang lên
hoà nhập vào nhau thành khúc ca bi tráng, ai oán, đầy tiếc thương. Đó chính là
âm hưởng chủ đạo của đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”. Vậy là cuối cùng Vũ
Như Tô cũng đã phải trả giá cho chính hành động của mình. Cái chết của người
nghệ sĩ vừa đáng thương lại vừa đáng giận.Là một nghệ sĩ đầy tài năng và giàu
sáng tạo, Vũ Như Tô muốn khẳng định tài năng của mình, muốn tô điểm cho đất
nước, muốn làm đẹp cho đời, nhưng khát vọng nghệ thuật và đam mê sáng tạo của
ông đã đặt lầm nơi lạc chốn, lạc điệu với thời thế, xa rời thực tế, nên đã phải
trả giá bằng chính sinh mệnh của bản thân và của cả công trình thấm đẫm mồ hôi
tâm não của mình. Người đọc, người xem thương người nghệ sĩ có tài có tâm, đam
mê nghệ thuật, khao khát sáng tạo, sẵn sàng hi sinh tất cả cho cái đẹp nhưng xa
rời thực tế, mà phải trả giá đắt bằng cả sinh mệnh và cả công trình nghệ thuật
đầy tâm huyết sáng tạo cuả mình
Cuối cùng, xin trở lại với mối băn khoăn được nêu trong lời
Ðề tựa kịch. “Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ðài Cửu
Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc? “Tháp người Hời nguyên là giống Angkor !” Văn minh Chiêm Thành và văn minh Angkor thuộc số những nền văn minh đã tử vong. Số phận, bí
quyết trường tồn hay tử vong của các nền văn minh và các dân tộc là một chủ đề
tư tưởng sâu kín của vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng và những suy ngẫm kiên trì,
lắng đọng từ thuở thiếu thời cho đến tận lúc qua đời, của ông về số phận của
dân tộc chúng ta, so với số phận các dân tộc khác, cho thấy ông thực sự là một
Con Người Việt Nam viết hoa. Ông vừa mừng vui cho sự trường tồn của dân tộc,
vừa lo lắng cho tiền đồ của nó, tiền đồ ấy, ông nghĩ rất đúng, phụ thuộc vào
việc dân tộc có hiện thực hóa được những tiềm năng sáng tạo của mình hay không.
Ðây là động cơ mãnh liệt khiến Nguyễn Huy Tưởng viết đi viết lại kịch Vũ Như
Tô. Nguyễn Huy Tưởng ghi lại, nhưng không chia sẻ tư tưởng của Trương Tửu về
cái Ðạo Việt Nam ,
mà cốt lõi là “sống trước đã, sáng tạo sau”. Bởi lẽ sáng tạo thuộc về nhiệm vụ,
thiên chức của từng con người và từng dân tộc. Có thể thực hiện nó dưới nhiều
hình thức, không nhất thiết phải bằng những công trình nghệ thuật kỳ vĩ khiến
thế giới kinh ngạc. Nhưng nhiệm vụ ấy phải được thực hiện, và không thể coi nó
là nhiệm vụ cấp thứ hai, như Trương Tửu làm. Nhìn vào lịch sử, ta thấy có những
dân tộc hay những nền văn minh đã suy vong do, trong một giai đoạn nào đó, đã
huy động đến vắt kiệt những tiềm lực sáng tạo của mình (văn minh Angkor là thí
dụ điển hình). Nhưng, ngay trước mắt chúng ta, một số dân tộc (ở Bắc và Trung
Phi) có lịch sử khá lâu đời; họ đương thực hiện – khó nói một cách khác – sự
tiêu diệt lẫn nhau và sự tự diệt. Phải chăng bởi vì họ đã không tìm ra con
đường giải phóng những tiềm lực sáng tạo của mình, và những tiềm lực ấy chuyển
hóa thành những lực hủy hoại? Bi kịch Vũ Như Tô thôi thúc chúng ta suy nghĩ và
suy nghĩ”(Phạm Vĩnh Cư)
Đoạn
trích nói riêng và vở kịch nói chung đã để lại giá trị nhân văn sâu sắc
rằng: “Không có cái đẹp tách rời cái chân cái thiện. Tác phẩm nghệ
thuật không thể chỉ mang cái đẹp thuần tuý, nó phải có mục đích chân chính là
phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc đời. “Văn chương không chỉ là văn chương mà thực
chất là cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát và là nơi đi tới của văn chương”.
Người nghệ sĩ phải có hoài bão lớn, có khát vọng sáng tạo những công trình vĩ
đại cho muôn đời, nhưng cũng biết xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa khát vọng đó
với điều kiện thực tế cuộc sống với đòi hỏi của muôn dân”. Một vấn đề đặt ra nữa
là “Xã hội phải biết tạo điều kiện sáng tạo cho các tài năng, vun đắp tài năng,
quý trọng nâng niu những giá trị nghệ thuật đích thực”.
Qua
tấn bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng gợi những
suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với hoạt động sáng tạo nghệ
thuật và thực tế đời sống nhân dân. Vì vậy vấn đề tác giả đặt ra ngày ấy, giờ
đây bước sang thiên niên kỉ mới, nó vẫn còn nguyên giá trị.