Phân tích bài thơ Tương Tư (Nguyễn Bính)
MB: Nguyễn Bính, một nhà thơ mới luôn tha thiết với những giá trị cổ truyền và tìm về với cội nguồn dân tộc để thổi vào những cung bậc...
https://hocvan123.blogspot.com/2019/11/phan-tich-bai-tho-tuong-tu-nguyen-binh.html
MB: Nguyễn Bính, một nhà thơ mới luôn tha thiết với những giá trị
cổ truyền và tìm về với cội nguồn dân tộc để thổi vào những cung bậc cảm xúc
của mình một hồn quê đậm đà, chân chất. Nếu như ở Huy Cận, chúng ta nhận thấy
được sự ảnh hưởng của thể thơ lục bát cổ điển thì Nguyễn Bính lại là đại diện
cho thể thơ lục bát dân gian mà bài thơ “Tương tư” là một minh chứng tiêu biểu.
Với những ngôn từ giản dị, hình ảnh mộc mạc, bài thơ đã tả được tâm trạng tương
tư của chàng trai quê với những cung bậc cảm xúc, những diễn biến tâm lý đa
dạng nhưng cũng vô cùng chân thành và bình dị.
1. Tác giả
- Nguyễn Bính (1918 - 1966) tên thật là
Nguyễn Trọng Bính quê ở Vụ Bản-
Nam Định.
- Ông làm thơ từ bé, vừa thuộc mặt chữ đã đọc ra thơ - tài năng
thơ bẩm sinh.
- Nét đặc sắc là những hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc chân quê cùng
thể lục bát truyền thống.
2. Tác phấm
- Rút trong tập Lỡ bước sang ngang 1940
- Văn bản:
Thôn Ðoài ngồi nhớ thôn Ðông,
Một người chín nhớ mười mong một người,
Gió mưa là bệnh của trời,
Tương Tư là bệnh của tôi yêu nàng,
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này,
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng,
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành,
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi,
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai hỏi ai người biết cho,
Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau,
Nhà em có một giàn trầu,
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng,
Thôn Ðoài thì nhớ thôn Ðông,
Cau thôn Ðoài nhớ trầu không thôn nào.
Một người chín nhớ mười mong một người,
Gió mưa là bệnh của trời,
Tương Tư là bệnh của tôi yêu nàng,
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này,
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng,
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành,
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi,
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai hỏi ai người biết cho,
Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau,
Nhà em có một giàn trầu,
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng,
Thôn Ðoài thì nhớ thôn Ðông,
Cau thôn Ðoài nhớ trầu không thôn nào.
3. Bình giá
“Tương tư”, một cảm xúc, một căn bệnh khó
lòng mà tránh khỏi của những người đang yêu, đặc biệt là những buổi đầu, những
khi mà tình yêu còn e ấp trên môi, chưa dám tỏ bày. “Tương tư” thường được hiểu
là tâm trạng nhớ nhung, mong ngóng của đôi trai gái khi yêu, nhưng trong thực
tế, diễn biến tâm trạng này chỉ xảy ra ở một phía mà cụ thể trong bài thơ này,
đó là tâm trạng nhớ mong của chàng quê chất phác:
“Thôn Đòai ngồi
nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người”.
Một người chín nhớ mười mong một người”.
Cũng như biết bao tâm hồn đã và đang tương
tư khác, nỗi tương tư của chàng trai cũng được bắt đầu bằng sự mong nhớ. Nhưng
kì lạ thay, tại sao ở đây lại là “thôn Đoài nhớ thôn Đông” mà không phải là ai
đó nhớ một ai đó? Đơn giản bởi một lẽ, nỗi tương tư ấy đã thấm vào cả cảnh vật
và lan toả khắp không gian, cũng như đại thi hào Nguyễn Du đã nhận xét: “Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Việc sử dụng hình ảnh hai thôn để diễn tả thay
cho hai cá thể đang yêu của Nguyễn Bính quả thật rất tinh tế, nó có thể hiện
được một cái gì đó đậm đà thắm thiết qua tiếng “nhớ” mà cũng có gì đó e ấp, thẹn
thùng chưa dám nói ra. Thêm vào đó, điệp từ “một người” được ngăn cách bằng
“chín nhớ mười mong” vừa như một nhịp cầu mà cũng vừa như tấm bình phong ngăn
trở của mối tình đậm đà buổi sơ khai này vậy. Từ đó, tác giả đi đến một kết
luận, một sự đúc kết sâu sắc:
“Gió mưa là bệnh
của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Đối với những ai đã, đang và mong muốn
được dấn thân vào biển yêu thương ngọt ngào xen lẫn những khổ đau thì tương tư
là căn bệnh không thể nào tránh khỏi. Nó làm cho những tâm hồn yêu đương phải
mệt mỏi, dằn vặt nhưng cũng chính vì thế mà tình yêu trở nên nhiều màu sắc hơn.
Tâm trạng chàng trai quê không dừng lại ở
sự nhớ mong mà từ sự nhớ mong đó, cảm xúc và diễn biến tâm lý của chàng trai
được nâng lên một bậc khác đó là sự mong ngóng, đợi chờ, muốn nhìn thấy người
mình yêu. Tâm trạng đó được bộc lộ rõ rang qua bốn câu thơ tiếp theo:
“Hai thôn chung
lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
Hai câu đầu cứ như có một ý gì đó tự hỏi
mà cũng có một ý gì đó hờn trách nhẹ nhàng. Gấn thế cơ mà, nhưng sao “bên ấy”
chẳng sang chơi “bên này”, để cho bên này phải đợi mong mỏi mòn, phải “ra ngẩn
vào ngơ”, phải tương tư khổ sở thế này, “Bên ấy” có biết cho “bên này” chăng?
Sao cứ còn hờ hững mãi? “Ngày qua ngày lại qua ngày”, thời gian cứ thế trôi kéo
theo sự nhớ mong dai dẳng trong tâm hồn của “bên này”. Lâu lắm rồi, chờ đợi đã
bao ngày rồi, đến nỗi “lá xanh” kia cũng đã “nhuộm” vàng rồi “bên ấy” à! Đối
với những tâm hồn đang yêu đương cháy bỏng thì một ngày hay thậm chí một giờ
một khắc không gặp người mình yêu cũng dài như mấy năm vậy. Sự vận động của
thời gian được tác giả miêu tả bằng điệp ngữ “qua ngày” cùng tự “lại” ở đây đã
cụ thể hóa thời gian, diễn tả được bước đi chậm chạp, nặng nề của thời gian
dưới cái nhìn của một tâm trạng nóng lòng chờ đợi. Bên cạnh đó, bằng việc sử
dụng hai sắc màu chủ đạo “xanh” và “vàng” cùng động từ “nhuộm” ở đây không chỉ
diễn tả được sự vận động trong một quãng đường khá dài của thời gian mà còn cho
thấy được tâm trạng héo mòn, khô úa vì đợi chờ của nhân vật trữ tình. Cái tâm
trạng chờ mong, nóng lòng, bồn chồn đến “ra ngẩn vào ngơ” này cũng không hiếm
gặp trong ca dao dân ca Việt Nam ,
ví như câu:
“Khăn thương nhớ
ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt”
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt”
Cái trạng thái vô hồn của chủ nhân chiếc
khăn trong bài ca dao kia cũng tương tư như tâm trạng của chàng trai quê trong
“tương tư” vậy. Một tâm trạng bồn chồn như ngồi trên đống lửa khi một ngày
không có em, một ngày không được nhìn thấy em dù chỉ trong một tích tắc.
“Bảo rằng cách trở
đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành”
Không sang là chẳng đường sang đã đành”
Em ơi, nếu như hai ta phải ngăn cách nhau
bởi sông dài, biển rộng, đi lại khó khăn thì đành vậy thôi em à! Nhưng em ơi
đây chỉ cách có “một đầu đình”, “có xa xôi mấy mà tình xa xôi”? Lúc bấy giờ,
chúng ta có thể cảm nhận được mộ sự hờn trách nhẹ nhàng, cái lối hờn mát trách
yêu của một tâm hồn nhớ mong cháy bỏng. Vì rằng đường xa khó khăn nên em không
sang hay cái bụng của em không muốn sang. Phải chăng ở bên thôn Đông ấy em có
tìm được một niềm vui nào đó to lớn hơn, tìm được một niềm vui nào đó to lớn
hơn, tìm được một niềm hạnh phúc nào đó ấm áp hơn nên em đã quên mất một cây
si, cây tương tư đang chờ em ở thôn Đòai mất rồi.
“Tương tư thức mấy
đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho”
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho”
Cũng vì nhớ mong, ôm ấp hình bóng ai kia
mà em ơi đã bao đêm anh thức trắng. Nhựng có mấy ai biết cho mối tình đơn
phương này, có ai hiểu cho con tim nồng cháy nơi anh nên anh đành phải ôm trọn
một mối tương tư tận sâu vào trong tâm khảm. Tâm trạng chàng trai lúc bấy giờ
dường như có gì đó bối rối và hụt hẫng. Một ngày không gặp thì nhớ mong, hai
ngày không gặp thì bồn chồn, lo lắng, ba ngày không gặp thì hờn mát, trách yêu,
rồi nhiều nhiều ngày nữa không gặp thì nỗi tương tư giờ đây đã chuyển sang một
cung bậc cảm xúc cao hơn, phức tạp hơn: đó là sự buồn bã, không ăn, không ngủ,
biểu hiện của một tâm hồn bị nỗi nhớ mong dày vò, dằn vặt. Biết khi nào đây?
Khi nào “bến mới gặp đò”, “hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau”. Đến đây, hệ
thống những hình ảnh được tác giả sử dụng đã ngày một đa dạng và phong phú hơn
cũng như tâm trạng chàng trai đang diễn biến ngày càng phức tạp và đa cung bậc
hơn. Điểm lại tâm trạng ấy, ta có thể thấy rõ ràng một sự tăng tiến trong cảm
xúc của nhân vật trữ tình: từ nhớ mong đến chờ đợi, bồn chồn rồi đến hờn trách
và tự vấn bản thân để từ đó nâng lên một bậc nữa trong cảm xúc. Cũng là sự mong
muốn nhưng đã không còn chỉ là nỗi mong muốn được gặp nhau mà giờ đây, chàng
trai muốn được gắn kết, được giao hòa và được kết tóc se duyên cùng người “bên
ấy” ở “thôn Đông”.
“Nhà em có một
giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng”.
Nhà anh có một hàng cau liên phòng”.
Nhắc đến trầu cau, chúng ta nhớ ngay đến
cái đám cưới cổ truyền của dân tộc, nhớ ngay đến một sự khăng khít, gắn bó của
lứa đôi và nhớ ngay đến sự chung thủy, gắn kết của hai tâm hồn đang hòa nhập
làm một. Cách xưng hô của chàng trai ở đây cũng đã thay đổi, không còn là “thôn
Đòai”, “thôn Đông” hay “bên ấy”, “bên này”, cũng không còn là “bến” – “đò” hay
“hoa” – “bướm” mà đã trở thành “anh” và “em”. Điều đó thể hiện một khát khao
gắn kết mãnh liệt, muốn cùng người mình yêu thương sống trọn đời trọn kiếp để
tạo nên một cái kết có hậu và đẹp đẽ của mối duyên quê, tình yêu chất phác, đậm
đà.
Suốt bài thơ, chúng ta không khó để bắt
gặp những hình ảnh đậm chất dân gian, đơn giản, mộc mạc mà có sức gợi tả, gợi
cảm mạnh mẽ. Những hình ảnh ấy luôn song đôi với nhau: “thôn Đòai – thôn Đông”,
“bến – đò”, “hoa – bướm”, “trầu – cau”,… và ngày càng tăng tiến trong việc thể
hiện sự giao hòa, gắn kết với nhau phù hợp với việc miêu tả tâm trạng tương tư
diễn biến phức tạp của chàng trai. Cũng qua những hình ảnh đó mà phong cách thơ
của Nguyễn Bính cũng được bộc lộ và làm rõ, một phong cách thơ đậm “hồn quê” và
thiết tha với những giá trị cổ truyền của dân tộc đang dần dần mai một lúc bấy
giờ. Đọc “Tương tư”, chúng ta như đọc mộ bài ca dao dài vậy, cũng những hình
ảnh quá đổi bình dị và thân quen, cùng lối viết giản dị và mộc mạc, cũng thể
lục bát dân gian cô đọng mà giàu sức gợi tả. Tẩt cả hòa quyện vào nhau tạo nên
một hồn thơ, một phong cách thơ rất Nguyễn Bính.
KL: “Tương tư”, một thi phẩm xuất sắc có
sức phổ cập rất lớn trong nhân dân. Bằng nét chung rất riêng và cũng là nét
riêng rất chung của ngòi bút Nguyễn Bính, bài thơ đã thể hiện một cách chân
thực, bình dị diễn biến của một tâm trạng tương tư: nhớ mong, bồn chồn, hờn
giận, trách móc và khát khao giao hòa gắn kết. Từ đó bài thơ đã nâng lên, trở
thành tinh hoa của văn học dân gian, thể hịên cái đẹp đẽ, đáng yêu của mối tình
quê thắm thiết, bình dị.